Tuồng cung đình Huế - di sản văn hoá nghệ thuật sáng giá của dân tộc
Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Cung đình Huế, thời gian qua, vẫn duy trì và tổ chức đều đặn các buổi diễn tuồng xưa và tuồng cung đình (Ảnh: Báo Thừa Thiên Huế). |
Mới đây, nhiều vở tuồng và trích đoạn tuồng cung đình Huế được sưu tầm, phục dựng và giới thiệu với du khách tại Nhà hát Duyệt Thị Đường (Đại nội Huế) cùng một số điểm tham quan thuộc khu di sản Huế. Tuồng cung đình Huế (từng mất dần môi trường diễn xướng nguyên thủy kể từ khi triều đại nhà Nguyễn cáo chung vào năm 1945), Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm khoa học về tuồng Huế.
Hồ sơ khoa học về mặt nạ tuồng Huế, vũ đạo tuồng Huế, phục trang tuồng Huế… cũng được sưu tầm, nghiên cứu xây dựng làm cơ sở khôi phục và phát huy những giá trị quý báu của nghệ thuật tuồng mà tiền nhân đã để lại.
Có thể nói, tuồng cung đình Huế là bộ môn nghệ thuật có từ lâu đời. Cụ thể, vào thế kỷ XVII, Đào Duy Từ là người đầu tiên đã mang về cho chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên nghệ thuật tuồng (hát bội). Giới nghệ nhân tuồng và cổ nhạc Huế đến nay vẫn thờ Đào Duy Từ làm tổ sư và coi năm 1627 là niên đại khởi đầu của lịch sử tuồng Huế.
Nhà sư Thích Đại Sán, người Trung Quốc, đã được chúa Nguyễn Phúc Chu mời đến Huế năm 1695 đã kể lại buổi xem diễn tuồng trong phủ chúa. J. Barrow trong tác phẩm "A Voyage to Cochinchine in the year 1792- 1793" đã vẽ lại cảnh diễn tuồng ở Đàng Trong thời Tây Sơn. Nghệ thuật tuồng Huế đã trải qua ba thế kỷ phát triển trong dòng truyền thống văn hóa Phú Xuân và phát triển rực rỡ dưới triều đại các vua nhà Nguyễn. Vua Tự Đức đã từng tổ chức hàng ngũ sáng tác tuồng bao gồm những tác gia lỗi lạc trong nước, đứng đầu là Đào Tấn, sau này là tác giả kiệt xuất của nhiều vở tuồng nổi tiếng. Tuồng đã được biểu diễn trong nhà hát ở Đại nội như: Duyệt Thị đường, Tĩnh Quang viện, Thông Minh đường, Khiêm Minh đường...
Dưới thời vua Tự Đức, hàng trăm vở tuồng đã được sáng tác, hàng trăm đào kép giỏi quy tụ về kinh đô. Vua Đồng Khánh thì mê tuồng đến nỗi đã dùng tên các nhân vật trong vở tuồng ông yêu thích để đặt cho các cung nữ. Còn vua Thành Thái cũng say sưa với nghệ thuật tuồng và rất trọng các đào kép giỏi, ông không chỉ ban thưởng tiền bạc mà còn phong tước hiệu cho nhiều bậc thầy hát bội. Ông là Hoàng đế duy nhất của triều Nguyễn đã lên sân khấu diễn tuồng "đóng trò" đồng thời là một tay trống tuồng tài ba. Vua Khải Định cũng đam mê với tuồng. Ông đã thiết lập hẳn một nơi diễn tuồng riêng tại cung An Định, ban xiêm y tốt cho các đoàn hát, tạo điều kiện cho các tài năng phát triển.
Từ sau thời Tự Đức, tuồng Huế dần vượt ra khỏi cung đình và trở thành sân khấu của quần chúng bình dân. Nhiều người đã tự đứng ra lập gánh hát, nuôi "đào", "kép" riêng và ganh đua với nhau. Nghệ thuật tuồng từ đó sống và phát triển được nhờ công chúng.
Tại kinh đô Huế, các rạp hát bắt đầu mọc lên khắp nơi, sân khấu tuồng từ trước vốn có chỉ phục vụ vua quan triều đình, dần dần lan ra chiếm lĩnh ở những nơi công cộng. Những rạp hát nổi tiếng ở Huế trước năm 1945: Bắc Hòa, Nam Hòa, Đồng Xuân Lâu, Kim Long, An Cựu, Vĩ Dạ, Bao Vinh...Tên tuổi những cô đào sắc vẹn toàn vẫn còn thời Khải Định như: cô Thuôi, cô Ba Lài, cô Bạch Trúc, cô Cầm, cô Cháu Em, cô Nghè Đồng, cô Ba Vĩnh... Hơn 50 rạp hát khắp Đông Dương bấy giờ vang dội tiếng hát, tiếng trống của sân khấu tuồng Huế.…
Tuồng cung đình là đại diện cho chủ nghĩa cổ điển của sân khấu Việt Nam. Cổ điển với cái nghĩa mẫu mực, có quy phạm và thể chế chặt chẽ, từ các điệu hát, âm nhạc, cái trống chầu cho đến trình độ diễn xuất của các nghệ sĩ.
Nội dung của các vở tuồng trong thời kỳ này luôn đề cao tinh thần trung quân ái quốc. Toàn bộ bối cảnh xã hội được nêu ra trong tuồng cung đình đó là: bảo vệ vua, khôi phục cương vị xã hội, xây dựng nền tảng đạo lý vững chắc bằng tam cương ngũ thường, trung nghĩa tròn vẹn.
Tuồng cung đình có hàng trăm vở, trong đó có các vở mang tính tiêu biểu, độc đáo, sâu sắc về nội dung và tư tưởng như: Sơn hậu, Dương chấn tử, Tam nữ đồ vương, Hồ thạch phủ, Lý phụng đình, Giác oan, Đào phi phụng, Phụng kỉnh văn, Ngọn lửa hồng sơn; Về Tuồng pho - Tuồng trường thiên có các vở: Vạn Bửu Trình Tường (108 hồi, Lấy các vị thuốc đông y đặt tên cho các nhân vật), Quần Phương Hiến Thuỵ (100 hồi, lấy tên các loài thảo mộc đặt tên cho các nhân vật), Học Lâm (Học lâm các): có nghĩa là: “Rừng học luật” Gồm: 08 hồi, lấy những lớp hay nhất trong các vở Tuồng cổ, chắp lại với nhau trong những cấu trúc mới, đặt tên cho nhân vật, viết lại lời mới theo lối văn bác học. Tuy vậy, do điều kiện cũng như những vấn đề khách quan và chủ quan, Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế hiện nay mới chỉ sưu tầm, phục hồi và biểu diễn một số vở Tuồng và trích đoạn nằm trong hệ thống đồ sộ của Tuồng cung đình Huế.
Hành trình dân tộc đi về phương Nam, làm nên vẽ đẹp hào hùng của tổ quốc, chính là hành trình văn hoá Phú Xuân. Nhà hát Duyệt Thị Đường là một sân khấu bật nhất của thế kỷ 19 – 20. Đây là nơi đóng vai trò quan trọng cho việc làm nên sự nghiệp nghệ thuật vĩ đại. Bảo tồn nhà hát Duyệt Thị Đường và phục hồi chức năng của nhà hát cũng là tìm lại những giá trị nghệ thuật truyền thống của dân tộc nhằm làm cho di sản văn hoá Huế ngày càng thêm phong phú. Đây là vẽ đẹp hoành tráng mà văn hoá đã đáp ứng cho nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của nhân dân và khách tham quan du lịch.