Quan hệ Việt Nam - Cuba: 64 năm thủy chung, trong sáng
Với ý thức cách mạng rằng cuộc chiến đấu chống Mỹ của quân dân Việt Nam là để bảo vệ hoà bình, độc lập và hạnh phúc cho các quốc gia Á - Phi - Mỹ La tinh, trong đó có Cuba, Đảng và nhân dân Cuba đã dành cho Việt Nam sự ủng hộ về chính trị kịp thời, năng động và hiệu quả trong suốt những năm đánh Mỹ. Tháng 12/1961, Cuba là nước đầu tiên công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Tháng 7/1962, phái đoàn đại diện của Mặt trận bắt đầu hoạt động thường trú tại Cuba và tháng 7/1965 phái đoàn được nâng cấp hoạt động như một sứ quán. Tháng 9/1963, Uỷ ban Cuba đoàn kết với miền Nam Việt Nam được thành lập (từ năm 1965 được đổi tên thành Uỷ ban Cuba đoàn kết với Việt Nam). Uỷ ban đã khởi xướng, động viên, tập hợp lực lượng và tổ chức các tầng lớp nhân dân Cuba vào các hoạt động phong phú nhằm chia lửa chiến đấu với Việt Nam. Năm 1967 được Cuba đặt tên là “Năm Việt Nam Anh hùng” đúng vào thời điểm gay go quyết liệt của cuộc chiến tranh Việt Nam. Trong hơn 60 năm qua, Nhà nước Cuba chỉ một lần duy nhất lấy tên nước khác đặt tên năm cho quốc gia mình.
Chủ tịch Fidel Castro chụp ảnh cùng Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại Vĩnh Linh, Quảng Trị năm 1973. (Ảnh: TTXVN) |
Tháng 7/1967, Cuba là nước đầu tiên thiết lập cơ quan đại sứ quán trong vùng giải phóng miền Nam Việt Nam, đem lại nguồn cổ vũ, động viên quý báu cho các chiến sĩ quân giải phóng. Khi các cửa biển miến Bắc Việt Nam bị hàng nghìn thuỷ lôi của Mỹ phong toả và bầu trời Việt Nam đêm ngày bị máy bay Mỹ không kích, đồng chí Fidel Castro đã khẳng định tình đoàn kết, sự ủng hộ và niềm tin của gần 11 triệu người Cuba đối với Việt Nam là vô điều kiện và tuyệt đối. Từ Hòn đảo xanh, những người con của dân tộc Cuba đã đến các cửa biển, lạch sông Việt Nam tháo gỡ ngư lôi, bom mìn… quả cảm và vô tư như chính họ đã từng đóng góp trong con đường mòn huyền thoại Hồ Chí Minh. Tháng 9/1973, bất chấp khói lửa chiến trường, lãnh tụ Fidel Castro đã đến Quảng Trị, trở thành nguyên thủ quốc gia nước ngoài đầu tiên và duy nhất thăm vùng giải phóng miền Nam Việt Nam. Đến ngày Sài Gòn được giải phóng, 30/4/1975, cả nước Cuba cũng tràn ngập cờ hoa và cả những dòng nước mắt - nước mắt trong ngày vui đại thắng của một dân tộc “vì Việt Nam sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình”.
Chủ tịch Fidel Castro thăm vùng vĩ tuyến 17 năm 1973. (Ảnh: TTXVN) |
Từ năm 1975 trở đi, Việt Nam và Cuba lại sát cánh bên nhau trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Thủ tướng Fidel Castro một lần nữa thể hiện tình nghĩa thuỷ chung của gần 11 triệu dân Cuba: “Nếu trước đây chúng ta sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình, thì ngày nay chúng ta sẵn sàng đổ mồ hôi để giúp Việt Nam xây dựng lại đất nước”. Mặc dù cũng có nhiều khó khăn, thiếu thốn trong đời sống vật chất, nhưng Cuba đã tặng Việt Nam 5 công trình kinh tế - xã hội có giá trị lớn: khách sạn Thắng Lợi, trại bò giống Ba Vì, tuyến đường Sơn Tây - Xuân Mai, bệnh viện Việt Nam - Cuba (ở Đồng Hới, Quảng Bình), xí nghiệp gà Lương Mỹ. Trong bối cảnh phương Tây và các thế lực thù địch tìm mọi thủ đoạn bao vây, cô lập, chống phá Việt Nam trên trường quốc tế, Cuba vẫn thuỷ chung sau trước đứng cạnh Việt Nam, ủng hộ và bảo vệ với tư thế hiên ngang không nhầm lẫn. Cuối năm 1982, Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Cuba - Việt Nam được ký kết tại La Habana xác định khuôn khổ pháp lý cho mối quan hệ đã xum xuê lá xanh và quả ngọt. Nhân dịp này, Chủ tịch Fidel Castro đánh giá: “Giống như những dòng sông nhỏ phát sinh từ những vùng xa cách nhau và trong một thời gian dài đã trải qua những thác ghềnh và trong cảnh lẻ loi, hai dân tộc chúng ta đã trải qua lịch sử cho đến một lúc nhập vào dòng sông lớn và hùng vĩ của cách mạng xã hội chủ nghĩa”.
Tượng đài Chủ tịch Fidel Castro trong khuôn viên Bệnh viện Việt Nam - Cuba Đồng Hới (Quảng Bình), một trong 5 công trình Cuba tặng Việt Nam. (Ảnh: Báo Sài Gòn Giải Phóng) |
Từ cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90, Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Cuba lại cùng nhau bước vào cuộc chiến đấu mới để bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển chủ nghĩa xã hội. Với ý thức coi việc đoàn kết, ủng hộ và hợp tác với Cuba là một nguyên tắc, một mệnh lệnh của trái tim, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã huy động một nguồn lực kinh tế quý báu giúp nhân dân Cuba vượt qua những thiếu thốn vật chất trong thời kỳ đặc biệt. Các phong trào 20 nghìn tấn gạo, 5 triệu suất giấy bút, 5 nghìn bộ quần áo… gửi tặng nhân dân Cuba đã được hoàn thành xuất sắc ở Việt Nam. Lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước đã sớm xác định khuôn khổ mới cho mối quan hệ song phương vừa tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị truyền thống vừa nâng cao tính hiệu quả của các chương trình hợp tác. Tháng 9/1995, hai nước ký Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Tháng 4/1996, hai nước ký Hiệp định thương mại và các hình thức hợp tác kinh tế khác.
Quan hệ hợp tác Việt Nam - Cuba được mở rộng trên nhiều lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, thương nghiệp, đầu tư, văn hoá, giáo dục, khoa học kỹ thuật… Việt Nam chuyển giao kỹ thuật và con giống giúp Cuba canh tác lúa nước trên quy mô nhỏ, nuôi trai lấy ngọc, phát triển công nghệ gốm sứ, duy trì khối lượng gạo hàng hoá sang thị trường Cuba… Phía Cuba tiếp tục hợp tác giúp đỡ Việt Nam trong công nghệ mía đường; chế biến phụ phẩm từ mía đường; nuôi cá sấu, nuôi và sử dụng mồi Mosca diệt sâu hại mía; chuyển giao gen kháng bệnh cho lúa, bắp cải, khoai lang; tư vấn giám sát các công trình xây dựng khu liên hợp thể thao, đường Hồ Chí Minh; hỗ trợ kỹ thuật phát triển công nghệ sản xuất nhà ở kiểu simplex ở vùng ngập nước đồng bằng sông Cửu Long; giúp đỡ một số chương trình y tế quan trọng…
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp Bí thư Thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Cuba, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa Cuba Raul Castro Ruz trong chuyến thăm cấp nhà nước đến Cuba, tháng 3/2018. (Ảnh: Bộ Ngoại giao) |
Các chuyến thăm lịch sử của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Cuba tháng 3/2018 và của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng Cuba Miguel Diaz-Canel tháng 11/2018 đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Cuba ngày càng tin cậy, gắn bó, hiệu quả. Hai nước tiếp tục đổi mới phương thức hợp tác theo hướng nâng cao tính thực chất, nâng cao hiệu quả, tập trung thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực hai bên có thế mạnh và cùng quan tâm như các lĩnh vực thương mại, đầu tư, nông nghiệp, công nghệ sinh học, y tế, xây dựng, công nghiệp, giao thông vận tải, thông tin truyền thông, tài chính, ngân hàng, văn hóa, thể dục thể thảo, giáo dục đào tạo và khoa học kỹ thuật.
Tháng 4/2018, Việt Nam đã tuyên bố xóa nợ cho Cuba. Việt Nam hiện là đối tác thương mại lớn thứ hai của Cuba tại khu vực châu Á và châu Đại Dương. Tổng kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam - Cuba năm 2018 đạt mức gần 400 triệu USD. Trong chuyến thăm chính thức Việt Nam của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cuba Miguel Diáz-Canel tháng 11/2018, hai bên đã ký nhiều văn bản, thỏa thuận hợp tác, trong đó có Hiệp định Thương mại mới giữa Việt Nam và Cuba, tạo ra cơ sở pháp lý đưa quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước lên ngang tầm quan hệ chính trị đặc biệt sẵn có, nâng kim ngạch thương mại hai chiều lên 500 triệu USD trong những năm tới.
Các doanh nghiệp Việt Nam có hoạt động hợp tác thương mại với đối tác Cuba gồm: Công ty GAET, Tổng Công ty Lương thực miền Bắc, Công ty Thái Bình, Tổng Công ty Viglacera, Công ty Hanel, Công ty Nhật Trang, Công ty Động Lực, Công ty AMV, Công ty Hưng Thắng… Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Cuba là: gạo, đồ điện, điện tử, quần áo, giầy dép, mỹ phẩm, vật liệu xây dựng, vật liệu công nghiệp, vật dụng gia đình, văn phòng phẩm, thực phẩm… Các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam gồm: thuốc, vắc xin, sinh phẩm. Việt Nam luôn đáp ứng đề nghị của phía bạn Cuba các hợp đồng nhập khẩu hàng hóa với hình thức mua trả chậm 360 ngày, riêng hợp đồng gạo mua trả chậm 540 ngày.
Phía Cuba cũng chủ động đề xuất doanh nghiệp Việt Nam tham gia đầu tư vào các lĩnh vực tiềm năng như: công nghiệp, du lịch, công nghệ sinh học và các lĩnh vực ưu tiên tại Đặc khu phát triển Mariel (ZEDM) và lĩnh vực mới như sản xuất vắc xin, dược phẩm... Trong hành trình xúc tiến đầu tư vào ZEDM, Cuba đã chọn Việt Nam là đối tác đầu tiên được cấp phép đầu tư 100% vốn nước ngoài để phát triển khu công nghiệp được khởi công vào tháng 11/2018. Năm 2014, Cuba đã ban hành Luật Đầu tư mới, coi trọng thu hút đầu tư nước ngoài như một nguồn lực chính cho phát triển kinh tế Cuba. Các lĩnh vực phía Cuba quan tâm thu hút đầu tư gồm: năng lượng, thăm dò và khai thác dầu khí, công nghiệp, sản xuất lương thực, sản xuất đường, sản phẩm liên quan đến mía đường, du lịch, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, viễn thông và các lĩnh vực khác tại Đặc khu phát triển Mariel cũng như tại các địa phương khác của Cuba.
ViMariel, khu kinh tế đầu tiên của Việt Nam tại Cuba. (Ảnh: KT) |
Trên lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản, hai nước đã tổng kết, rút kinh nghiệm từ các dự án: “Dự án hợp tác Việt Nam - Cuba phát triển sản xuất lúa gạo tại Cuba giai đoạn 2010 - 2015”; Dự án hỗ trợ lập quy hoạch phát triển thủy sản cho Cuba giai đoạn I (2012 - 2014); Dự án hỗ trợ ngành nuôi trồng thủy sản Cuba giai đoạn II (2014 - 2017); Dự án hỗ trợ Cuba phát triển cây có hạt giai đoạn II (2014 - 2017). Hai bên thống nhất đánh giá, các dự án hợp tác nêu trên đều đã kết thúc và đạt được nhiều kết quả khả quan, hỗ trợ tích cực cho Cuba trong việc gia tăng sản lượng lương thực, thực phẩm, nâng cao trình độ kỹ thuật và quản lý cho đội ngũ cán bộ ở cấp quản lý và cấp triển khai thực hiện ở địa phương, tạo thêm nhiều việc làm, giảm đáng kể lượng ngoại tệ nhập khẩu để phục vụ cho phát triển kinh tế Cuba. Trên cơ sở đó, hai nước tiếp tục triển khai một số dự án mới. Dự án phát triển cây cà phê tại Cuba và Việt Nam (2016 - 2020), thực hiện theo mô hình hỗ trợ lẫn nhau, mỗi bên đóng góp 3 triệu USD, được triển khai thực hiện từ tháng 3/2016 và hai bên đang thực hiện theo kế hoạch đề ra. Dự án phát triển sản xuất lúa gạo tại Cuba giai đoạn (2019 - 2023) với tổng số vốn khoảng 40 triệu USD (phía Việt Nam hỗ trợ 20 triệu USD, phía Cuba cung cấp vốn đối ứng 20 triệu USD), đã chính thức khởi động từ tháng 5/2019 và 22 chuyên gia Việt Nam đã được cử sang Cuba để triển khai thực hiện theo kế hoạch đề ra.
Trên lĩnh vực công nghệ sinh học, dược phẩm và y tế, Cục Quản lý Dược Bộ Y tế Việt Nam và Cơ quan Quản lý Dược Bộ Y tế Cuba đã ký kết Bản Ghi nhớ hợp tác vào tháng 9/2019, theo đó hai bên sẽ thành lập nhóm hợp tác kỹ thuật giữa cơ quan quản lý dược hai nước nhằm thúc đẩy nhanh hơn hoạt động chuyển giao công nghệ các sản phẩm thuốc, sinh phẩm mà hai bên có thế mạnh cũng như hỗ trợ việc đăng ký, tái đăng ký và kiểm định các sản phẩm thuốc xuất khẩu, nhập khẩu giữa hai nước. Hai bên đang hợp tác nghiên cứu phát triển để tiến tới sản xuất vắc xin, sinh phẩm tại Việt Nam: vắc xin điều trị ung thư phổi giai đoạn cuối; vắc xin điều trị viêm màng não mô cầu; vắc xin tái tổ hợp phòng viêm gan B; vắc xin phòng viêm màng não mô cầu tuýp A, C, W135; viên đặt hậu môn điều trị bệnh trĩ cấp tính…
Quan hệ quốc phòng Việt Nam - Cuba thời gian qua tiếp tục là lĩnh vực trụ cột và là điểm sáng trong hợp tác giữa hai nước. Hai bên đã phối hợp chặt chẽ, triển khai thiết thực, hiệu quả các nội dung hợp tác trên cơ sở các văn bản, thỏa thuận được ký kết theo Kế hoạch Hợp tác giai đoạn 2017 - 2019; giao lưu cấp cao tiếp tục được tăng cường, góp phần thúc đẩy và đưa hợp tác quốc phòng song phương đi vào thực chất, hiệu quả. Tháng 9/2019, hai bên đã tổ chức Đối thoại lần thứ III Chính sách quốc phòng Việt Nam - Cuba, tạo cơ sở xây dựng Kế hoạch Hợp tác quốc phòng giai đoạn 2020-2022, định hướng phát triển quan hệ quốc phòng song phương, góp phần củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị truyền thống tốt. Việt Nam sẵn sàng hợp tác với Cuba trong các lĩnh vực như viễn thông, thông tin liên lạc mà Việt Nam đã làm chủ công nghệ; đề nghị Bộ Các lực lượng vũ trang cách mạng Cuba tạo điều kiện để Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) sớm tham gia đầu tư, phát triển hạ tầng viễn thông và các lĩnh vực tiềm năng khác tại Cuba trong thời gian tới; đồng thời, tiếp nhận học viên, chuyên gia của Cuba sang đào tạo về các chuyên ngành cơ yếu - mật mã, công nghiệp quốc phòng, tác chiến điện tử, tiếng Việt nâng cao... Việt Nam sẽ tiếp tục cử học viên sang học các chuyên ngành mà Cuba có thế mạnh như quân y, công binh...
Ở Mỹ La tinh, tên tuổi Hồ Chí Minh trong suốt nhiều thập kỷ vừa qua đã trở thành nguồn cảm hứng đầy sinh lực và kho tri thức vô giá đối với biết bao sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh và Fidel Castro mãi mãi là những lãnh tụ đương thời đồng hành cùng nhân dân hai nước trên những bước đường phía trước, soi sáng cho chúng ta vững vàng một niềm tin và tìm được giải pháp đúng đắn cho nhiều vấn đề cơ bản, cấp bách hiện nay.
PGS.TS Nguyễn Viết Thảo (thứ hai từ phải sang), Phó Chủ tịch Thường trực Hội hữu nghị Việt Nam - Cuba tiếp nhận kinh phí ủng hộ nhân dân Cuba khắc phục khó khăn do ảnh hưởng sự cố cháy kho nhiên liệu tại tỉnh Matanzas, Cuba hồi tháng 9/2022. (Ảnh: Báo Công an nhân dân) |
Sự củng cố và phát triển của mối quan hệ Việt Nam - Cuba là một trong những nhân tố góp phần bảo vệ, duy trì và phát triển chủ nghĩa xã hội ở hai nước trong những năm qua. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam và quá trình cập nhật hóa mô hình kinh tế xã hội Cuba của sự phát triển xã hội chủ nghĩa đã tạo tiền đề, tương tác và bổ sung lẫn nhau trên cả bình diện lý luận và thực tiễn. Thành quả của mối quan hệ anh em thủy chung, trong sáng thắm tình cộng sản Việt Nam - Cuba là nguồn sức mạnh to lớn góp phần đưa Việt Nam ra khỏi khủng hoảng, thoát khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đồng thời, đã giúp Cuba từng bước khắc phục những khó khăn của thời kỳ đặc biệt, kiên định và sáng tạo trong xây dựng và bảo vệ đất nước.
Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đến nay đã hun đúc nên nhiều mối quan hệ thắm tình đoàn kết chiến đấu giữa các quốc gia dân tộc. Quan hệ Việt Nam - Cuba xứng đáng là mẫu mực và tấm gương đã được thể hiện và thử thách qua nhiều thời kỳ, năm tháng lịch sử; trở thành di sản vô giá của nhân dân hai nước. Trước mắt, sự nghiệp đổi mới, cải cách và xây dựng chủ nghĩa xã hội còn phải vượt qua không ít khó khăn, thử thách; nhưng những người cộng sản và nhân dân Việt Nam - Cuba vững bước tiến lên phía trước với sức mạnh của mùa thu tháng Tám năm 1945, của Moncada (7/1953), của Điện Biên Phủ (5/1954), của Girón (4/1961), của Đại thắng mùa Xuân năm 1975 và của truyền thống 64 năm quan hệ rất mực thuỷ chung, trong sáng.
Với nhân dân Việt Nam, hai tiếng Cuba đồng nghĩa với biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng, khí phách hiên ngang, ý chí quật cường, niềm tin mãnh liệt vào lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Quan hệ Việt Nam - Cuba là quan hệ anh em, đồng chí thân thiết, chân thành, trong sáng và đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ ở mỗi nước, đã được thử thách, rèn luyện qua hơn nửa thế kỷ đến ngày nay và đang tiếp tục phát triển tốt đẹp, trở thành biểu tượng của thời đại. Mối quan hệ Việt Nam - Cuba anh em sẽ “ngày càng phát triển, mãi mãi gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau, cùng vững bước trên con đường đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”, như lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các tầng lớp nhân dân Việt Nam đã khẳng định.