Cuộc cách tân ẩm thực Việt Nam tại Ba Lan

18:57 | 12/08/2025

Piotr Gadzinowski là nhà báo kỳ cựu của Ba Lan, nguyên Đại biểu Quốc hội và từng giữ chức Chủ tịch Nhóm Nghị sĩ hữu nghị Ba Lan - Việt Nam. Ông dành tình cảm sâu đậm cho Việt Nam, nhiều lần sang thăm và có những bài viết sâu sắc về đất nước và con người Việt Nam. Hiện ông giữ vai trò Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Ba Lan - Việt Nam “Tương Lai”.
Người Việt tại Ba Lan: cộng đồng đoàn kết, hệ thống tổ chức hội đoàn đầy đủ trên các lĩnh vực
Những nhịp cầu đưa văn học Ba Lan đến với bạn đọc Việt Nam
Cuộc cách tân ẩm thực Việt Nam tại Ba Lan
Nhà báo Ba Lan Piotr Gadzinowski. (Ảnh: KT)

Cộng đồng người Việt Nam đã trở thành một bộ phận của xã hội Ba Lan. Họ chăm chỉ, tôn trọng pháp luật, mang đến một chút là lạ phương Đông độc đáo nhưng đã trở nên gần gũi, thân thuộc. Hiện nay, khó xác định chính xác số người Việt tại Ba Lan, với các ước tính dao động từ 30.000 - 50.000 người. Sự năng động của cộng đồng người Việt, đặc biệt là thế hệ trẻ, chính là lời giải thích cho điều đó. Nhiều người trong số họ đã trở thành công dân Ba Lan, tốt nghiệp các trường đại học trong và ngoài nước, và thông thạo nhiều ngoại ngữ, trong đó nổi bật là tiếng Ba Lan. Họ biết cách tận dụng những lợi thế mà Liên minh Ba Lan - Châu Âu mang lại, đặc biệt là các cơ hội học tập và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ.

Ở Việt Nam, việc cha mẹ và cả cô dì chú bác trong gia đình cùng dành dụm để con cái được học hành đã trở thành điều hiển nhiên. Họ sẵn sàng làm việc từ sáng sớm tới tối mịt, không mua xe hơi, nhưng lại dành tiền cho con đi du học ở London hoặc Mỹ. Vì thế, bạn có thể bắt gặp những người Việt trẻ ở khắp châu Âu. Tại Việt Nam cũng vậy, phần lớn họ thường tự kinh doanh, làm chủ cửa hàng hay doanh nghiệp nhỏ của mình.

Ở Việt Nam, bạn sẽ hiếm thấy những khu chung cư lớn vốn đặc trưng cho các nước thuộc khối Liên Xô cũ. Không có những căn hộ kiểu “Khrushchev” phổ biến như ở Liên Xô, hay những khối nhà bê tông cốt thép như ở Đông Đức trước đây. Người Việt truyền thống thường muốn sở hữu một ngôi nhà riêng, tốt nhất là có lối ra vào ngay mặt đường, và tất nhiên tầng trệt phải có cửa hàng buôn bán hoặc có thể làm dịch vụ. Bởi vì người Việt thường giống như một “doanh nghiệp” thu nhỏ - có thể là công ty một thành viên hoặc công ty gia đình.

Nền kinh tế Việt Nam ngày nay được xây dựng trên cơ sở hàng triệu doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nó là bệ đỡ cho các tập đoàn lớn của nhà nước trong quá trình thương mại hóa, đồng thời tạo nền tảng để các công ty tư nhân lớn vươn lên khẳng định vị thế kinh tế của mình.

Những người Việt Nam đầu tiên đến Ba Lan là các lưu học sinh được cử sang Cộng hòa Nhân dân Ba Lan theo học đại học và thực tập tại các nhà máy đóng tàu của Ba Lan. Sau những năm tháng tu nghiệp các kỹ sư, công nhân đóng tàu ngày ấy đã trở về Việt Nam làm việc, tham gia xây dựng đất nước. Ngày nay, có hàng trăm kỹ sư, công nhân đang làm việc tại các nhà máy đóng tàu ở Việt Nam, từng được đào tạo nghề tại Gdańsk, Gdynia và Szczecin. Họ vẫn duy trì mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với các cựu giám đốc nhà máy đóng tàu Ba Lan, những người hiện thường giữ vai trò cố vấn cho ban lãnh đạo các nhà máy ở Việt Nam. Hiện tại, các nhà máy đóng tàu Việt Nam đã đủ sức cạnh tranh hiệu quả với những doanh nghiệp Trung Quốc và Hàn Quốc.

Trong những năm chiến tranh chống Mỹ giành độc lập và thống nhất đất nước, nhiều học sinh tốt nghiệp trung học ở Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa mang trong mình ước mơ được đi du học. Đó là cơ hội để rời khỏi quê hương nghèo khó, bị tàn phá bởi chiến tranh triền miên; là cơ hội được học tập trong hòa bình tại những quốc gia phát triển hơn. Với những thanh niên tài năng, đó còn là khởi đầu cho sự nghiệp cống hiến cho Tổ quốc và xây dựng tương lai của chính mình sau này.

Ở Việt Nam, từ lâu, cơ hội du học nước ngoài gần như chỉ mở ra cho những học sinh học giỏi, những người từng đoạt giải trong các kỳ thi. Và những cơ hội đó không phải là đặc quyền dành riêng cho tầng lớp giàu sang hay những người thuộc“con ông cháu cha”. Các ứng viên thường chỉ biết mình sẽ được cử sang “quốc gia anh em” nào vào những ngày cuối cùng trước khi lên đường. Vì thế, trong giới du học sinh khi ấy lan truyền một “lời tiên đoán” dựa trên kinh nghiệm của những người đi trước là: Nếu được gửi sang Moscow, bạn chắc chắn sẽ bước vào con đường chính trị. Nếu sang Đông Đức, sự nghiệp khoa học đang chờ bạn. Còn nếu đến Ba Lan, bạn sẽ có một tuổi trẻ tự do và đầy niềm vui.

Tôi chưa tìm thấy số liệu đáng tin cậy nào thống kê đầy đủ tổng số sinh viên Việt Nam học tập tại Ba Lan. Khi còn giữ chức Chủ tịch Nhóm nghị sĩ Ba Lan - Việt Nam, tôi từng gặp ban giám đốc của một nhà máy đóng tàu ở khu vực Hạ Long, gồm năm người và tất cả đều là cựu sinh viên của Đại học Bách khoa Gdańsk. Tất cả họ đều nói tiếng Ba Lan rất lưu loát. Họ không quên ngôn ngữ này vì nó vẫn hữu ích trong công việc hằng ngày. Khi đàm phán với khách hàng Hàn Quốc, Pháp hay Singapore, đến lúc phải thống nhất giá cả cuối cùng của hợp đồng, họ thường trao đổi với nhau bằng tiếng Ba Lan. Các đối tác nước ngoài thường có người hiểu tiếng Việt nhưng lại không để lộ điều đó, nên ban giám đốc Việt Nam chỉ có thể yên tâm bàn bạc nội bộ bằng tiếng Ba Lan.

Tại Việt Nam, tôi cũng gặp nhiều cựu sinh viên của Đại học Bách khoa Gliwice, hiện có người trong số họ là chủ tịch và giám đốc các tập đoàn than lớn. Nòng cốt của Hội Hữu nghị Việt Nam - Ba Lan, với khoảng 4.000 thành viên, chính là các cựu sinh viên từng học tại các trường đại học Ba Lan. Sau này, họ đã trở thành giáo sư, bộ trưởng, giám đốc hay chủ tịch thành phố tại Việt Nam. Người nổi tiếng nhất trong số đó là Nguyễn Thế Thảo - cựu Chủ tịch Hà Nội, từng là sinh viên Đại học Bách khoa Krakow. Một nhóm đông đảo các cựu sinh viên Học viện Mỏ và Luyện kim AGH Krakow, trong đó sau này có hai người giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Tài Nguyên và Môi trường cũng hoạt động rất sôi nổi tại Việt Nam, đến mức ngày nay họ vẫn được gọi vui, nhưng đầy sự nể trọng, là “Mafia AGH”.

Mãi đến năm 1990, khi nền kinh tế thị trường khắc nghiệt bắt đầu lan rộng ở Ba Lan, thì tại Việt Nam, công cuộc cải cách thị trường đã khởi động từ năm 1984. Sự sụp đổ của Liên Xô và khối Hội đồng Tương trợ Kinh tế (SEV) buộc nhiều người Việt Nam đang học tập và sinh sống tại Ba Lan phải thay đổi nghề nghiệp. Những người có bằng tiến sĩ, thạc sĩ về các ngành khác nhau đã bắt đầu mở những quán ăn Việt Nam. Tuy nhiên, các món ăn ấy đều được biến tấu để phù hợp với khẩu vị người Ba Lan và tận dụng được nguyên liệu sẵn có tại địa phương.

Chính họ đã mang đến một cuộc cách mạng ẩm thực đích thực cho đất nước chúng ta. Họ đã mang đến cho người Ba Lan những hương vị đậm chất Á Đông, dạy chúng ta cách nấu ăn vừa ngon, vừa bổ dưỡng lại tiết kiệm. Cả một thế hệ người Ba Lan, đặc biệt là sinh viên, đã lớn lên cùng ẩm thực Việt Nam. Những quán ăn và nhà hàng Việt không chỉ xuất hiện ở các thành phố lớn mà còn len lỏi đến tận các thị trấn nhỏ khắp Ba Lan. Ngày nay, chúng đã trở thành một phần quen thuộc của cảnh quan và đời sống ẩm thực nơi đây.

Ngoài Việt Nam và tại Ba Lan, hiếm nơi nào trên thế giới mà nhà hàng Việt Nam lại nhiều hơn nhà hàng Trung Quốc.

Nem rán truyền thống “sajgonki” theo phong cách Ba Lan

Nem rán truyền thống hay “sajgonki” theo phong cách Ba Lan là một câu chuyện thú vị. Khi đến Việt Nam, bạn đừng hỏi về món “sajgonki” mà người Ba Lan quen thuộc, vì ở đây chúng được gọi là “nem”, món ăn đặc trưng của miền Bắc Việt Nam. Những đầu bếp gốc Việt tại Ba Lan đã tinh ý nhận ra rằng những chiếc bánh tráng cuốn nhỏ bé này sẽ dễ dàng chinh phục thực khách Ba Lan, nhất là khi khoác lên mình cái tên lạ tai “sajgonek”. Tất nhiên, phần lớn những người làm ra món ăn ấy đều đến từ miền Bắc, nhiều người sinh ra tại Hà Nội. Họ từng cân nhắc một cái tên khác - “hanojki” nhưng rồi nhận ra rằng nó chưa đủ “exotique”, chưa gợi được cái vẻ hấp dẫn lạ lẫm như “sajgonki”. Ngày nay, “sajgonki” đã trở thành một phần quen thuộc của ẩm thực Ba Lan, giống như món kołduny của Litva, cá chép kiểu Do Thái hay súp củ cải của Ukraine. Saigonki thậm chí còn xuất hiện trong những bữa tiệc chính thức tại Đại sứ quán Trung Quốc ở Warsaw.

Cuộc cách tân ẩm thực Việt Nam tại Ba Lan
Một khách Ba Lan mua món "sajgonki" tại cửa hàng Việt Nam. (Ảnh: Báo Tuổi trẻ)

Món ăn Việt - Ba Lan thứ hai chính là phở. Ở Việt Nam, món này được phát âm là “phở” nghe gần giống “fa”, như tên một loại xà phòng trong các bài hát ngày xưa. Đây là món súp đã nổi tiếng khắp thế giới, nhưng hành trình của nó lại bắt đầu rất khiêm nhường - như một loại “nước dùng của người nghèo”. Nồi phở được ninh từ xương bò hoặc xương gà, thêm vào đó là sợi mì gạo - gọi là phở, hoặc bún - cùng tất cả những gì sẵn có trong nhà. Món này được mô tả là "một loại súp có thêm phụ liệu".

Ở Việt Nam, món súp này có thể ăn vào cả ba bữa trong ngày - sáng, trưa và tối. Buổi sáng, một bát phở nóng hổi giúp nạp năng lượng, xua tan cơn uể oải sau một đêm dài. Bữa trưa, người Việt thường ăn vào khoảng 12 giờ, phở tiếp thêm sức lực cho phần còn lại của ngày. Buổi tối, một bát phở lại giúp cơ thể đủ năng lượng để tiếp tục nhịp sống về đêm.

Ở Ba Lan, phở trở nên quen thuộc nhờ giới trẻ. Sau những cuộc vui chơi trong các hộp đêm, họ thường kéo nhau đến các khu chợ của người Việt - nơi mở cửa từ 4 giờ sáng - để thưởng thức món phở. Ở đó, họ mới được nếm hương vị phở “thật” với nồi nước dùng vốn được nấu cho những người lao động Việt bắt đầu ca làm từ tờ mờ sáng.

Ngày nay, ở Việt Nam, chúng ta có thể thưởng thức đủ loại biến tấu của món “Phở” - từ những tô phở bán trên vỉa hè cho đến phở được phục vụ trong các nhà hàng sang trọng, đẳng cấp. Ở Ba Lan cũng vậy, không khó để tìm thấy những quán ăn phục vụ món súp này. Vừa gần gũi với hương vị Việt Nam, vừa hợp khẩu vị người Ba Lan. “Phở” nay đã có mặt trong thực đơn của nhiều nhà hàng “châu Á” ở Ba Lan, thậm chí nó còn xuất hiện cả trong các quán ăn bình dân địa phương, đứng ngang hàng với sườn cốt lết, kebab, súp chua żurek và bánh pierogi .

Món súp này cũng trở thành nhân vật chính trong bộ phim “Hương vị Phở” “Smak Pho”, nói về sự hòa quyện giữa văn hóa Việt Nam và Ba Lan. Bộ phim được thực hiện vào năm 2020 bởi nữ đạo diễn người Nhật Mariko Bobrik, người từng học tập và được đào tạo tại Ba Lan, với sự tham gia của các diễn viên Việt Nam và Ba Lan.

Mì gói VIFON, một sản phẩm quen thuộc với tất cả sinh viên, được bổ sung tạo nên Bộ ba của ẩm thực Việt Nam tại Ba Lan. Đó là mì khô được chế nước sôi, rồi thêm các gói gia vị đi kèm. Người khéo tay có thể linh hoạt lược bớt một vài gói gia vị và thay thế bằng nguyên liệu theo sở thích hoặc tận dụng những gì sẵn có trong nhà - giống như cách biến tấu món phở vậy. Nhờ những gói mì này với giá chỉ vài złoty, hàng nghìn sinh viên Ba Lan đã vượt qua những năm tháng học tập đầy khó khăn, tài chính eo hẹp và thiếu thốn.

Người Việt tại Ba Lan: cộng đồng đoàn kết, hệ thống tổ chức hội đoàn đầy đủ trên các lĩnh vực Người Việt tại Ba Lan: cộng đồng đoàn kết, hệ thống tổ chức hội đoàn đầy đủ trên các lĩnh vực
Trong khuôn khổ chuyến thăm làm việc tại Ba Lan từ ngày 05-08/7/2025, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng đã thăm, tìm hiểu tình hình cộng đồng người Việt tại Ba Lan.
Những nhịp cầu đưa văn học Ba Lan đến với bạn đọc Việt Nam Những nhịp cầu đưa văn học Ba Lan đến với bạn đọc Việt Nam
Suốt hơn bảy thập kỷ, từng trang sách Ba Lan đã vượt ngôn ngữ, vượt khoảng cách địa lý để đến với độc giả Việt Nam. Đằng sau đó là những dịch giả lặng lẽ nhưng đầy đam mê, kiên trì làm nhịp cầu nối hai nền văn học.

Piotr Gadzinowski (Hoàng Thu Oanh dịch)

Đường dẫn bài viết: https://thoidai.com.vn/cuoc-cach-tan-am-thuc-viet-nam-tai-ba-lan-215517.html

In bài viết